Thứ Sáu, 9 tháng 3, 2012

Chính trị Việt Nam


VẤN ĐỀ CHÍNH CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY:

LÀM SAO KHỎI Bị TÀU THÔN TÍNH?

Để đương đầu với nguy cơ đó, phải thực hiện
Hoà Giải Tập Hợp Dân Tộc Và Sửa đổi Văn hóa

Tôn Thất Thiện
GS Tôn Thất Thiện 1963. Hình lấy từ Wikipedia

Phần I


1. Một sai lầm chiến lược vĩ đại

            Trong hơn nửa thế kỷ nay, Dân tộc Việt Nam đã trải qua bao nhiêu điêu đứng  thay vì được hưởng một đời sống hạnh phúc – an bình, vui tươi, tự do, sung túc --, mà họ ước mong. Căn  do của tình trạng này là  các nhà lãnh đạo Việt Nam  đã lấy những quyết định chiến lược sai lầm về địa lý chính trị trong những năm sau khi Thế Giới Chiến thứ Hai (TGC-II) kết thúc.
           
            Thời cơ hồi đó dã đặt quyền hành vào tay Ông Hồ Chí Minh và Đảng Cọng Sản Việt Nam. Họ ở trong thế lấy những quyết định chiến lược, nghĩa là những quyết định có tính cách nền tảng và định hướng dài hạn cho Việt Nam. Họ đã lấy những quyết định sai lầm tai hại vĩ đại. Những gì xảy ra cho Việt Nam từ 1945, và nhất là từ 1975, là bằng chúng không thể phản bác được của tính cách vĩ đại của những sự sai lầm tai hại này.

Sai lầm tai hại nhất là sai lầm về nhận định nguy cơ lớn nhất đe dọa sự tồn tại của Dân tộc Việt Nam. Ông Hồ và đồ đệ của ông không thấy, hay không chịu chấp nhận, những điều mà  khoa học xã hội học coi như  quy luật chi phối các sinh vật: ưu tư số một của mọi sinh vật là sinh tồn; ưu tư sinh tồn này khiến các sinh vật phải tranh dành nhau; trong sự tranh dành này, mọi sinh vật đều tìm cách bành trướng, lấn áp, tiêu diệt nhau, và mạnh được yếu thua. Quốc gia cũng là một sinh vật, và cũng bị các quy luật trên đây chi phối. Trung Quốc là một quốc gia lớn, tất nhiên bị thôi thúc bành trướng mạnh hơn các quốc gia khác.

Một cuộc phân tách sơ lược về địa lý chính trị cho thấy ngay là nạn nhân đầu tuyến của sự bành trướng của Trung Quốc là Việt Nam, một quốc gia nhỏ bé so với Trung Quốc khổng lồ, mà lại nằm sát ngay Trung Quốc. Sự kiện này đã được minh chứng qua hai ngàn năm lịch sử. Và ngày nay, tấn tuồng bành trướng lại đang được tái diễn ngay dưới mắt chúng ta.

 Nguy cơ bị Trung Quốc thôn tính rất rõ ràng, qua các vụ xâm chiếm các đảo Trường Sa, Hoàng Sa, lãnh thổ và hải phận Việt Nam, xâm nhập Cao nguyên, cách đối xử bất chấp luật pháp và đạo lý với ngư dân Việt Nam, cùng những bình luận trên báo chí Trung Quốc bàn về chiến lược chiến thuật xâm chiếm Việt Nam, và quy chế dành cho một Việt Nam sáp nhập vào Trung Quốc -- tỉnh,  hay vùng tự trị …--.

            Một yếu tố điạ lý chính trị quan trọng thứ hai đặt Việt Nam vào hàng đầu trong danh sách các vùng Trung Quốc cần xâm chiếm hiện nay, là Trung Quốc có tham vọng trở thành một đại cường quốc không những ở Á đông, mà trên toàn thế giới. Trong mấy năm qua, Trung Quốc đang tìm cách mở rộng thế  lực ở Châu Phi, Nam Mỹ, và tăng cường Không quân và nhất là Hải quân. Còn lâu Trung Quốc mới bắt  kịp Hoa Kỳ về hai ngành này. Tuy nhiên, Trung Quốc cần  liên lạc được với Châu Phi qua Ấn Độ Dương. Điều này buộc Trung Quốc phải có căn cứ ở bờ biển Ấn Độ Dương, đặc biệt là Singapore-Ma Lai A .Di chuyển bằng  đường biển từ Hải Nam xuống Singapore-Ma Lai A dễ bị Hải quân Mỹ cản trở. Cho nên Trung Quốc bắt buộc phải làm như Nhật Bản trong thời TGC-II : dùng đường bộ dọc Việt Nam để di chuyển xuống miền Nam. Nghĩa là Trung Quốc phải  chiếm Việt Nam….Hay là chi phối được Miền Nam một cách êm thấm.

Trong trường hợp thứ nhất, tất nhiên sẽ có sự  đụng độ với Việt Nam, vì dân Việt Nam sẽ chống đối. Chống đối dược hay không và thế nào? Điểm này sẽ  được bàn ở đoạn dưới.

2. Hồ Chí Minh và Trung Quốc

Trong trường hợp thứ hai, Trung Quốc sẽ không gặp trở ngại gì cả, vì sự lựa chọn của Ông Hồ và ĐCSVN là một sự dọn đường cho Trung Quốc thôn tính Việt Nam, nhân danh “anh em” trong “gia đình xã hội chủ nghĩa” và thành phần của Đệ Tam Quốc Tế. Trong sự mà chúng ta có thể gọi là “hiến Việt Nam cho Trung Quốc”, Ông Hồ có một vai trò đặc biệt, và công lao  của Ông đối với Trung Quốc rất lớn, qua sự gắn bó của Ông với Đệ Tam Quốc Tế (ĐTQT).

Trong các giới cọng sản Ông Hồ đã  được công nhận là “con người cách mạng chính cống”, “cán bộ đặc hạn của Đệ Tam Quốc Tế” (Kominternshik). Và ông  đã không ngớt hô hào cổ võ đồ đệ ông làm như ông. Ngay cả trong  Di Chúc của ông, ông cũng không quên nhắc nhở đảng viên phải bám chặt vào Nga Sô, phải giữ gìn đoàn kết của khối xã hội chủ nghĩa.

            Trong các bài viết của ông, ông  thường nhắc đi nhắc lại là tuy rằng ban đầu ông đến với Lê-nin vì lòng yêu nước, nhưng dần dần hiểu thêm về chủ nghĩa Lê-nin thì ông thành một người cọng sản thuần túy, và đã tin tưởng chủ nghĩa Lê-nin một cách tuyệt đối. Ông cũng thường nhắc đi nhắc lại là chủ đích của ông là “cách mạng thế giới”, Đảng Cọng Sản Việt Nam là một bộ phận của Đệ Tam Quốc Tế, và  Việt Nam Xã Hội  Chủ  Nghĩa  là “tiền  đồn” của khối xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam Á, “em út” của đại gia đình xã hội chủ nghĩa, coi Hoa Kỳ là “kẻ thù số một của nhân dân Việt Nam”. Đệ Tam Quốc Tế là một tổ chức đòi hỏi kỷ luật sắt, “em” phải tuân lời “anh”. Khi “anh cả,” Liên xô, không còn nữa, thì “anh hai”, Trung Cọng, kế vị. Dù sao, “anh” bảo, là “em” phải nghe. Kỹ luật cọng sản  là vậy. Khỏi cần tranh cãi gì lôi  thôi.

            Ở đây nên hỏi tại sao có nhiều người không cọng sản, và ngay cả nhiều người chống cọng sản, lại theo Ông Hồ và ĐCSVN       . Vấn đề này liên quan với vấn đề não trạng của dân Việt trong những năm 1945-1954. Phần đông, nếu không nói là hầu hết, dân Việt, đặc biệt là các lớp trung lưu và thượng lưu, đều chỉ chú tâm vào một mục tiêu: Độc Lập. “Độc lập”, trong trí  đại đa số,  không phải là chỉ chấm dứt chế độ bảo hộ Pháp, mà là “đánh Tây”, “đuổi Tây” để trả thù bao nhiêu năm bị làm nhục. Điều này làm cho họ hầu như mù quáng, không thấy gì khác. Ít ai nghĩ đến vấn đề: sau độc lập rồi gì nữa? Cũng rất ít người biết rõ thực chất của cọng sản.

Hồi đó ,“ Độc lập” là một giá trị tiêu chuẩn  tối thượng. “Độc lâp” cũng là một tín hiệu tụ hội dân chúng  rất  ăn khách, hữu hiệu 100%. Ai phất cờ độc lập là dân chúng ùa theo. Mà, lúc đó, Cựu Hoàng Bảo Đại, thay vì dùng tín hiệu “Độc lập” làm lá cđể để tụ hội dân chúng quanh mình, lại giao nó cho Ông Hồ. Ai muốn tranh đấu “đánh Tây”, “đuổi Tây”, thấy Việt Nam độc lập thì tụ hội quanh ông Hồ và Việt Minh. Một khi đã dính với Việt Minh thì mắc kẹt luôn với nó, và dần dần,  bị mắc kẹt luôn với ĐCSVN và hậu quả của đường lối “cách mạng” của nó: chiến tranh, đất nước bị chia cắt, dân chúng bị phân ly, sinh lực của Dân tộc bị xử dụng vào công cuộc giết chóc chống phá nhau, tài sản của đất nước bị tiêu hao phung phí , xứ sở lạc hậu, tham nhũng hoành hành, xã hội băng loạn

Ở đây, tất nhiên các cán bộ đãng viên ĐCSVN, những giới phản chiến ngoại quốc, và không ít người Việt chia sẽ quan điểm của giới này, sẽ tức tối hỏi: “Thế là phủ nhận công lao vĩ đại của Bác và Đảng đã sáng suốt lãnh đạo các cuộc chiến tranh thần thánh chống Pháp, chống Mỹ giải phóng nhân dân Việt Nam sao? Và cũng  phủ  nhận rằng chiến thắng đã  đạt được một phần không nhỏ nhờ có sự ủng hộ, yểm trợ to lớn của Trung Quốc? Làm sao có thể phủ nhận rằng nhân dân Việt Nam mang ơn rất nặng  với Bác, Đảng và Trung Quốc? ”.

Trong một thời gian dài, lối lý luận trên đây rất khó phản bác, vì tình hình Việt Nam và quốc tế thuận lợi cho phe phản chiến, và  người phản bác ở vào thế  yếu của phe bại trận.   Nhưng ngày nay, sự thực đã rỏ, và không chối cải được. Đó là Trung Quốc đã dùng Việt Nam  để quét sạch những lực lượng đe dọa  miền Nam Trung Quôc, thường được gọi là “the soft belly of China” (cái bụng mềm của Trung Quốc/ yếu điểm của Trung Quốc về quốc phòng). Trung Quốc đã  tán thành,  khuyến khích Ông Hồ và ĐCSVN đi sâu vào con đường chiến tranh, làm cho hàng triệu người Việt bị hy sinh, đất nước Việt Nam bị tàn phá, sinh lực Việt Nam bị tiêu hao, để quét các lực lượng ngoại lai và dọn sạch Việt Nam  thay cho Trung Quốc, rốt cuộc tạo  điều  kiện cho Trung Quốc ung dung vào chiếm, không bị ai cản trở…!!. Chính Hà Nội đã tố cáo Trung Quốc trong Bạch Thư công bố năm 1979, vào dịp  tranh chấp Việt-Trung về Kampuchea, rằng Trung Quốc muốn “đánh Mỹ đến người Việt cuối cùng”(“fight America to the last Vietnamese”).

Tình trạng trình bày trên đây là tình trạng chính trị và tâm lý căn bản chi phối tình hình Việt Nam suốt mấy thập niên qua. Nó là căn do của những gì đã xảy ra trong thời gian gần đây, và của nguy cơ mà nhân dân Việt Nam phải đương đầu hiện nay: nguy cơ bị Tàu thôn tính, dân chủ hoá  trì trệ vì đất nuớc bị lệ thuộc Trung Quốc nặng nề sâu đậm, nhất là về văn hóa, đang bị biến thành một “tiểu Trung Quốc”.

Chắc rằng, trong thời gian qua, ngoài và trong nước, có người tự an ủi với ý nghĩ: “Tình trạng không lẽ vô phương cứu chữa. Có thể nào như thế được?  Ai biết ít nhiều lịch sử Việt Nam đều biết rằng, trong quá khứ, dân Việt Nam đã mấy lần vùng dậy anh dũng chiến đấu và giải toả được đất  nước khỏi  nạn xâm lăng từ Phương Bắc; vậy tình hình có tuyệt vọng đâu?” Đúng!  Với điều kiện là chúng ta thực hiện được hai nhiệm tác:

 1 – Thành thực Hoà giải và Tập hợp Dân tộc,
 2 – Không do dự chấp nhận một số sửa đổi cần thiết về Văn hoá..


3. Hoà giải Hoà hợp Dân Tộc

Trong tình trạng hiện tại, và căn cứ trên kinh nghiệm của những thập niên qua, phải công nhận rằng cả hai điều trên đây rất khó thực hiện. Khó không phải là không thể làm được, và không cố gắng làm. Tuy nhiên, chúng ta cần phải gặp may lắm…

Thế nào là “thành thực Hoà giải Dân  tộc”?

Nhiều người trong giới  tỵ nạn ở Mỹ hay nơi khác phản ứng rất mạnh khi nghe nói đến “hoà giải”. Điều này cũng dễ hiểu: đối với họ, “Hoà giải Dân tộc” chỉ là một mánh khoé cọng sản, và chấp nhận “Hoà giải” là mc mưu cọng sản. Điều này  đúng, nhưng chỉ đúng trong bối cảnh của những năm 1970. Ngày nay, tình  hình đã khác nhiều. “Hoà giải Dân tộc” ngày nay bao gm  toàn thể Dân tộc Việt Nam, ở ngoài và trong nước, thuộc mọi thành phần, mọi phe phái.   Ngày nay, nói đến Hoà giải Dân Tộc là nói đến hoà giải trước là trong nội bộ, giữa những thành phần thuộc mỗi phía Quốc gia và Cọng sản, và, sau đó, giữa hai phía – “Quốc” và “Cọng” -- . Đây là điều kiện tiên quyết  để Tập hợp Dân tộc thành một khối rộng lớn, vững chắc, và hùng mạnh để ngăn chận ý đồ thôn tính Việt Nam của Trung Quốc. Trong quá khứ, dưới các Triều Lý, Trần, Lê, Việt Nam, tuy nhỏ bé, nhưng đã đẩy lui được quân xâm lăng Trung Quốc lớn hơn gấp bội nhờ có một sự Tập hợp Dân tộc thực sự:  trong hàng ngũ lãnh đạo, cũng như giữa lãnh đạo và dân, có một sự đồng thuận, nhất trí, quyết tâm chống kẻ xâm lăng.

Về phía Quốc gia, mấy lâu nay, moi móc quá khứ để tố cáo, mạ lỵ, chống đối nhau giữa các đoàn thể và các cá nhân tự nhận là tranh đấu cho dân chủ là việc xảy ra hằng ngày. Nhưng, ngày nay, ai có chút thiện chí cũng phải công nhận rằng ưu tiên trước mắt trong các hoạt động tranh đấu của  tất cả cá nhân hay đoàn thể Việt Nam nay  phải là: ngăn chận không cho Trung Quốc thôn tính  và diệt tiêu Việt Nam. Đây là ưu tiên tuyệt  đối của mọi người dân Việt. Và việc này đòi hỏi các cá nhân, các đoàn thể Việt  Nam phải chấm dứt những loại hoạt động moi móc nói trên.

Về phía Cọng sản, ngày nay cũng có vấn đề phân ly, chia rẽ, trong hàng ngũ của đảng cũng như trong hàng ngũ của những giới chống chế độ. Sự  kiện nỗi bật là càng ngày Đảng càng bị dân chúng công khai chống đối, và chính quyền càng bị cô lập. Trong  tình trạng này, chính quyền Việt Nam không có điều kiện để cưỡng lại áp lực, khước từ những đòi hỏi, lấn áp của Trung Quốc. Chỉ có một chính quyền được sự tin cậy và ủng hộ mạnh của dân chúng mới  làm cho Trung Quốc nương tay trong việc xâm lăng, lấn áp Việt Nam, và nếu có một cuộc đụng độ giữa hai quốc gia, Việt Nam mới có thể cầm cự được một thời gian và kêu gọi sự can thiệp của quốc tế. Đây là một điều hết sức quan trọng, cần xét kỹ  thêm, vì nó liên quan đến vai trò hậu cần thiết yếu của Miền Nam trong một cuộc kháng chiến trường kỳ.

Cuộc tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam có  thể  kéo dài âm ỷ, nhưng cũng có thể một lúc nào đó nó sẽ thành một sự đụng độ binh đao. Trong trường hợp thứ nhất tập đoàn lãnh đạo ĐCSVN hiện tại không chịu nỗi chống đối của dân, và ớn mang tiếng “bán nước”, triễn gân chống lại đòi hỏi của Đảng “bạn”, buộc Trung Quốc phải dùng đến binh lực. Trong  trường   hợp này tập đoàn lãnh đạo ĐCSVN đương nhiên bị đẩy vào thế thành một chính phủ “kháng chiến”. Họ phải có một  hậu cần. Và hậu cần chắc chắn – an toàn, đầy đủ tiếp tế -- chỉ có thể là Miền Nam, vì Miền Bắc, gần Trung Quốc, dễ bị chiếm và khó bảo vệ, khó kháng chiến trường kỳ.

Trong trường hợp thứ hai, một số cán bộ, quân nhân không chịu nổi cảnh Việt  Nam bị ức hiếp nhục mạ nữa, nỗi lên đảo chính. Nếu  thành công, họ lập lên một chính phủ kháng chiến; nếu thất bại, họ rút vào bưng và lập chính phủ giải phóng. Trong trường hợp này họ cũng cần một hậu cần vững chắc – an toàn và đầy đủ tiếp tế --, và hậu cần này cũng chỉ có thể là Miền Nam, vì  Miền Nam dễ  bảo vệ và tiếp tế hơn, nhất là với vụ bốc xít, Việt Nam sẽ bị cắt  thành hai và từ Qui Nhơn ra Bắc không thể tiếp tế được.

 Về phần quân Tàu, từ Đà  Nẵng trở vào Nam, tiếp tế sẽ khó khăn vì đường, xa và khí hậu không thích hợp cho họ. Tưởng ở đây cũng nên nhắc rằng Việt Nam chỉ có thể áp dụng chiến tranh du kích với Trung Quốc, vì Hải Quân Việt Nam không thế nào đương đầu với Hải Quân Trung Quốc được.

Những điều trên đây cho thấy rằng sự hiện hữu của Miền Nam như là một hậu cần an toàn và vững chắc là một điều kiện thiết yếu đbảo đảm sự tồn tại của Việt Nam, Nam lẫn Bắc. Và thất bại  hay thành công của kháng chiến tùy thuc một vào sự  yểm trợ của Miền Nam , và đặc biệt, sự sốt sắn của dân Miền Nam đối với chính phủ kháng chiến.

Mong rằng điều trên đây sẽ được chính quyền Hà Nội và những cán bộ cao cấp của ĐCSVN hiểu thấu để họ thay đổi đường lối, chính sách, cách đối xử với dân Miền Nam, mở đường cho một sự Hoà giải và Tập hợp Dân tộc thực sự, tạo điều kiện bảo vệ sự tồn tại của Việt Nam trước nguy cơ bị Trung Quốc xâm chiếm và tiêu diệt. Trong hiện tại, làm thế nào đạt được tình trạng nói trên là công việc của những người trong nước, và đặc biệt, trong Đảng. Hy vọng  rằng họ sẽ để Nước lên trên Đảng, và, bằng cách này hay cách khác, thực hiện được những điều nêu trên. Quan niệm: “Đảng còn, chúng ta còn” đúng, nhưng chỉ đúng có 2/3. Phải nghĩ rằng: ”Nước còn thì Đảng và chúng ta mới còn” mới đúng hoàn toàn!!!

Chỉ sau khi cả hai  phía đều đạt  được Hoà giải mới có thể bàn đến vấn đề Hoà giải ở cấp Dân tộc -- Hoà giải giữa tất cả các thành phần, phe phái, xu huớng -- để đi đến một sự Tập hợp Dân tộc mạnh mẽ có đủ điều kiện để yểm trợ  chính quyền Việt Nam chống lại áp lực hay xâm lăng của Trung Quốc.Đây là nhiệm vụ của của các  đoàn  thể tranh đấu mấy lâu nay. Mong rằng trong các giới này có những người lãnh đạo xứng danh - có đủ uy tín, khả năng, thấu triệt vấn đề --   có thể thực hiện được việc rất  tế nhị, rất phức tạp này. Một Tập hợp như vậy chỉ có thể thực hiện được nếu những điều kiện tối thiểu sau đây được mọi người chấp nhận:

1/ Lợi ích của Nước Việt Nam phải được đặt trên lợi ích của mọi đảng phái, mọi tổ chức;
2/ Không chấp nhận độc tài, độc đảng, độc tôn ;
3/ Thể chế phải xây trên nguyên tắc Phân quyền và Pháp trị;
4/ Sinh hoạt chính trị phải  theo nguyên  tắc Dân chủ;
5/ Tự do tư tưởng, ngôn luận, hội họp phải được tuyệt đối bảo đảm.

Cuộc tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc hiện  nay có hai  khía  cạnh, một  khía cạnh nổi và một khía cạnh chìm. Khía cạnh nổi  là  tranh chấp về lãnh thổ và hải phận. Nó  là  một  vấn đề thời sự, dễ nhận chân và đối phó. Khía cạnh chìm là khả  năng  ttồn và phát triển của Việt Nam  trong dài hạn trong viễn ảnh bị áp lực lệ thuộc hoá không ngừng từ Trung Quốc. Vấn  đề này là một vấn đề khó nhận chân, dài hạn, và phức tạp, khó đối phó. Nó liên quan đến vấn đề Việt Nam cần  phát  triển thế nào để thành một quốc gia hiện đại hoá, thích hợp với văn minh thời đại, giàu mạnh, dân chủ, có đủ sức tự vệ, độc lập về mọi mặt, đặc biệt là về văn hoá.  Nó đòi hỏi một sự xét lại sâu rộng, hoàn toàn vô tư, lâm thời đưa đến sự  nhận  ra  được những  giá trị tiêu chuẩn  và những tín hiệu tụ hội cần thiết, hay có hại, cho việc hiện đại hoá.  Nó là vấn  đề  Sửa  đổi  Văn  hoá, đòi hỏi  nhiều thì giờ và công phu. Nó sẽ  được  bàn  đến trong một bài sau.

Ottawa,
Viết cho Diễn Đàn Thế Kỷ 21,
Tháng 6, 2010


VẤN ĐỀ CHÍNH CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY:

LÀM SAO KHỎI Bị TÀU THÔN TÍNH?

Để đương đầu với nguy cơ đó, phải thực hiện
Hoà Giải Tập Hợp Dân Tộc Và Sửa đổi Văn hóa

                                                             Tôn Thất Thiện
(Tiếp theo)

phần II

            Trong bài trước (Diễn Đàn Thế Kỷ,  số  1, tháng 7, 2010) , tôi có nói:

“Cuộc tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc hiện  nay có hai  khía  cạnh, một  khía cạnh nổi và một khía cạnh chìm. Khía cạnh nổi  là  tranh chấp về lãnh thổ và hải phận. Nó  là  một  vấn đề thời sự, dễ nhận chân và đối phó. Khía cạnh chìm là khả  năng  ttồn và phát triển của Việt Nam  trong dài hạn trong viễn ảnh bị áp lực lệ thuộc hoá không ngừng từ Trung Quốc. Vấn  đề này là một vấn đề khó nhận chân, dài hạn, và phức tạp, khó đối phó. Nó liên quan đến vấn đề Việt Nam cần  phát  triển thế nào để thành một quốc gia hiện đại hoá, thích hợp với văn minh thời đại, giàu mạnh, dân chủ, có đủ sức tự vệ, độc lập về mọi mặt, đặc biệt là về văn hoá.  Nó đòi hỏi một sự xét lại sâu rộng, hoàn toàn vô tư, lâm thời đưa đến sự  nhận  ra  được những  giá trị tiêu chuẩn  và những tín hiệu tụ hội cần thiết, hay có hại, cho việc hiện đại hoá.  Nó là vấn  đề  Sửa  đổi  Văn  hoá,….”

----------------------------------

            1. Lệ thuộc văn hoá Trung Quốc

            Sửa đổi văn hoá ít được đề cập đến vì vấn đề này không gây  xúc động  mạnh trong dư luận như những vấn đề quân sự và chính trị. Phần khác, sự lệ thuộc nặng nề của Việt Nam đối với Trung Hoa về văn hoá cũng ít được để ý vì trong gần 200 năm nay nó bị nhu cầu giải quyết các vấn đề cấp bách liên hệ với cuộc tranh đấu dành lại độc lập, chủ quyền quốc gia ,và thống nhất  lãnh thổ Việt  Nam làm cho nó lu mờ đi. Nhưng ngày nay,  chiến tranh đã chấm dứt,  vấn đề độc lập thống nhất đã giải quyết, vấn đề lớn trước mắt là vấn đề phát triển, mà  văn hoá, và đặc biệt là sửa đổi văn hoá, lại là một vấn đề liên hệ mật thiết đến phát triển. Đồng thời, những hành vi xâm lăng trắng trợn của các giới lãnh đạo Trung Quốc đối với Việt Nam làm nỗi bật nguy cơ cho Việt Nam từ Trung Quốc và sự cần phát triển gấp để đối phó với nguy cơ này .Hai vấn đề này có liên hệ mật thiết với nhau.

            Nhìn ngược dòng lích sử, ta thấy Việt Nam là kết quả của một cuộc tranh đấu gắt gao và trường kỳ của Dân Tộc Nam Việt để thoát khỏi ách đô hộ của Trung Quốc. Cuộc đô hộ này đã kéo dài 1000 năm cho đến  đời Tiền Lê. Ảnh hưởng của sự đô hộ dài dẳng này rất sâu đậm về phương diện văn hoá không những trong thời gian đó, mà cả trong mấy thế kỷ sau. Nó vẫn còn, ngay cả sau  năm 1885,  khi Trung Quốc bị  Pháp ép ký hiệp định Thiên Tân từ nhượng quyền can thiệp vào Việt Nam, sau khi hệ thống giáo dục thi cử dùng Hán văn bị bải bỏ vào năm 1918, và ngay cả ngày nay, qua những kêu gọi “bảo tồn văn hoá Việt Nam”, “duy trì những giá trị cổ truyền”, “bảo vệ thuần phong mỹ tục”, ngăn chận xâm nhập của “văn hoá trụy lạc “ ngoại lai (nghĩa là của Tây Phương).

Sự lệ thuộc về văn hóa của Việt Nam đối với Trung Quốc đa dạng, rất chặt chẽ và  sâu đậm. Nhưng nó lại là một sự lệ thuộc tự nguyện. Dân Tộc Việt Nam không những  không  có mặc cảm bị ép buộc du nhập những giá trị của Trung Quốc, mà lại chính mình hăng say thâu nhận và hấp thụ những  giá trị đó -- tư tưởng, tập quán, đạo lý, phương thức tổ chức xã hội chính trị …--

            Sự kiện trên đây cũng dễ hiểu. Ở một thời mà thế giới của người Á Đông chỉ gồm có Trung Quốc to lớn với một nên văn minh rực rở, đứng giữa một số nước nhỏ và văn minh thua kém như Việt Nam, thì Trung Quốc  đương nhiên được coi như là quốc gia đàn anh , trung tâm của vũ trụ  -- Trung  Quốc --, vô địch về mọi mặt, và mô hình để bắt chuớc. Phần khác, hấp thụ văn minh Trung Quốc giúp cho Việt Nam có điều kiện tự xây dựng một quốc gia có quy củ, có văn hiến, có đủ sức không những để tự tồn, mà còn trở nên một quốc gia hùng cường trong vùng Đông Nám Á.

            Qua thời gian, tình trạng trên đây tạo ra một tâm lý tự ty, coi phiên thuộc đối với Trung Quốc là một điều đương nhiên. Về  nội  bộ  thì tuy các giá trị như “tôn ty trật tự” và “tam cương ngũ thường”, trọng sỹ khinh thương, hướng về quá khứ, của Khổng Giáo đã mang lại cho xã hội Việt Nam một tình trạng ổn định, nhưng cũng nhồi vào đầu não người Việt một tâm lý tùng phục kẻ cầm quyền, chỉ nhìn sự vật dưới khía cạnh đạo lý, lơ là về những vấn đề vật lý, tạo ra một tình trạng yếu kém, làm cho Việt Nam không có sức mạnh để tự vệ khi bi sự uy hiếp  của các quốc gia Tây Phương hùng mạnh, vì , khác với các nước Tây Phương, Việt Nam không  phải là sản phẩm của một nền văn minh dựa trên khoa học kỹ thuật .

            2. Khổng, Pháp, Cọng

Trong một tình trạng như trên, nền văn hoá mà Việt Nam đã hấp thụ của Trung Quốc không còn thích hợp nữa. Nhưng, rủi thay, vua, quan, sỹ phu thời Tự Đức, và 2-3 thế hệ sau đó, đã không nhận ra được sự thật này, và vẫn cố bám vào một mô hình văn hoá đã lỗi thời.  Đây là một mối rũi ro lớn .Dân Tộc Việt Nam mất đi một cơ hội hiện đại hoá , và không có khả năng tránh sự đô hộ của  Pháp .

            Sự đô hộ của  Pháp có những khía cạnh xấu, nhưng, cũng như mọi sự, nó cũng có những khía cạnh tốt. Là người bị đô hộ, người Việt dĩ nhiên thường chú ý vào những khía cạnh xấu, và bỏ qua những khía cạnh tốt đi, tuy rằng thái độ đó không có lợi cho chính mình.

            Khuôn khổ bài này không cho phép bàn chi tiết về những tích cực tiêu cực của thời bảo hộ Pháp. Ở đây chỉ cần ghi hai điểm. Nó mâu tuẫn nhau, nhưng đều có hại cho Việt Nam.

Về phần Việt Nam, các sỹ phu  chủ trương từ chối, gạt bỏ tất cả những gì người Pháp làm vì nó là “của Tây”, và Tây là “rợ”…Thái độ này  được coi là một thái độ  “ái quốc”, “cách mạng” vì “chống Tây”, được dân chúng kính phục.  Họ không coi sự tiếp xúc với văn minh Pháp  là một cơ hội  để thức tỉnh, và xét lại tận gốc những khuyết điểm của văn hoá Việt Nam và tìm cho Việt Nam một con đường mới để có thể tiến lên. Vấn  đề này có thể thâu tóm trong một từ ghép:“Tây Phương Hoá”. Từ  thông dụng ngày nay là “Hiện Đại Hoá”. Vấn đề được phân tách rất đầy đủ trong tác phẩm Chính Đề Việt Nam . (xin xem Chú Giải ở cuối bài) .Có thể nói là chủ trương này vẫn được một số người Việt chống đối đến ngày nay, với những kêu gọi “bảo tồn văn hoá Việt Nam”, “duy trì những giá trị cổ truyền”….

            Về phía Pháp, họ đã  tạo cho Việt Nam một cơ hội lớn để thoát  khỏi lệ thuộc văn hoá Trung Quốc, và mở đường cho Việt Nam tiếp xúc với văn minh Tây phương, nhưng đồng thời họ lại khuyến khích người Việt duy trì  chế độ văn hoá  “cổ truyền”, nghĩa là Khổng Giáo. Nhưng chế độ “Khổng Giáo” này  lại là một thứ Khổng Giáo hủ hoá và mất hết uy tín.

Khổng Giáo trị vì được gần 2000 năm một cách êm thấm, được vua, quan cho đến người thường dân chấp nhận vì nó là một thứ Khổng Giáo chính cống, trong đó mọi người làm đúng phận sự của mình:Vua ra vua – lo cho dân -- , quan ra quan -- trọng liêm sĩ --, và tuy nó đòi hỏi tôn ti trật tự, nó không phải là một hệ thống xã hội “đóng”, mà là một hệ thống xã hội “mở”, trong đó công bằng được thực sự tôn trọng  --  ai cũng có quyền học, thi, và thi đỗ được làm quan cả…Nhưng chế độ Khổng Giáo thời bảo hộ Pháp chỉ là một con sò có vỏ không có ruột:  vua không còn là vua nữa, nên quan cũng không ra quan, và dân cũng không ra dân nữa: họ mất kính trọng và tin tưởng, không còn gắn bó với chế  độ nữa. Những người đã lên án Khổng Giáo nặng nề và chủ trương dẹp bỏ hết nó đi đã không thấy rằng thứ Khổng Giáo mà họ lên án và đòi dẹp bỏ hết  đi  là Khổng Giáo thời bảo hộ Pháp, không phải Khổng Giáo chính cống. Có sự ngộ nhân này vì không những nó đã không bị dẹp bỏ đí, mà lại được tái sinh và phát  triển mạnh dưới chế độ cọng sản, với một danh xưng mới -- chủ nghĩa Mác-Lê --. Còn chế độ cọng sản  thì được coi như là một chế độ “Khổng Giáo cải tiến lớn”.

            Cọng sản đã thành công dễ dàng một phần lớn vì nó đã được thứ Khổng Giáo hủ hoá của bảo hộ Pháp dọn đường cho nó. Và nó đã phát huy những nết tật xấu xa nhứt của chế  độ này để cai trị dân dưới danh nghĩa “cách mạng”. Như mọi người đã biết, chế đô cọng sản là một thứ chế độ Khổng Giáo còn tồi tệ hơn Khổng Giáo thời bảo hộ Pháp. Và cùng với thứ Khổng Giáo thuộc bảo hộ Pháp này, những chính sách độc hại của thực dân Pháp, và những giáo điều phản đạo đức của chủ nghĩa Lê-nin được ghép chung lại nhau và đẩy xã hội Việt Nam vào tình trạng băng hoại, sa lầy, hầu như không lối thoát ngày nay. Tệ hơn hết, nó đã làm cho xã hội phân rẽ, nát bấy, vô đạo, và chính quyền bị dân mất hết tin tưởng  và  bị cô lập, không có khả năng bảo vệ lãnh thổ chủ quyền trước nguy cơ xâm lăng của Trung Quốc. Hơn nữa, do sự  lựa chọn con đường cọng sản, ông Hồ và Đảng Cọng Sản Việt Nam đưa Việt Nam vào qũy đạo của Đệ Tam Quốc Tế, với kỹ luật sắt của nó, và  đặt Việt Nam vào thế lệ thuộc Liên Xô, và sau khi Liên Xô tan rã, vào thế lệ thuộc Trung Quốc. Trong tình trạng này, sự lệ thuộc Trung Quốc lại là một sự lệ thuộc tự nguyện, êm thấm. Trung Quốc không cần phải dùng vũ lực xâm lăng Việt Nam. Họ chỉ cần chỉ thị cho lãnh đạo ĐCSVN làm theo ý họ….!!! Thôn tính bằng ý thức hệ -- nghĩa là văn hoá --xâm lấn thay vì xâm lăng. Và vì ĐCSVN khăng khăng cố bám vào ý thức hệ - nghĩa là văn hoá -  cọng sản  nên Dân Tộc Việt Nam lại bị đẩy trở lại vào tình trạng lệ thuộc Trung Quốc!!! [Điều này được phân tách rất  tường tận trong Chính Đề Việt Nam. Xin xem phần Chú Giải, ở cuối bài].

            3. Giá trị tiêu chuẩn

            Như đã nói rõ trong bài trước, muốn ra khỏi tình trạng bị Trung Quốc xâm lấn và thôn tính ngày nay, phải thực hiện Hoà Giải Tập Hợp Dân Tộc. Nhưng Hoà Giải và Tập Hợp Dân Tộc đòi hỏi phải có một sự đồng thuận lớn trong cọng đồng quốc gia Việt Nam về những giá trị tiêu chuẩn làm mẫu số chung cho cọng đồng. Giá trị tiêu chuẩn là những giá trị dùng làm tiêu chuẩn để phán xét , lựa chọn,  về người và việc, trong đời sống hằng ngày. Nó là cốt lõi của vấn đề sửa  đổi văn hoá.

            Để biết cần phải đồng thuận về những gì phải xét trong quá khứ Dân Tộc Việt Nam đã bị phân ly thế nào, về những gì, trong ba giai đọạn của lịch sử Việt Nam: giai đoạn trước Triều Tự Đức, giai đoạn Pháp bảo hộ, và giai đoạn cọng sản trị vì. Đây là một vấn đề rất lớn, không thể  bàn hết trong  vài trang báo được. Nhưng chúng ta có thể tóm gọn những gì mà người Việt thuộc đủ mọi giới, mọi thành phần, mọi tổ chức, mọi xu hướng, ngoài và trong nước, cần ráng thực hiện để có thể  để tạo một tình trạng cho phép thực hiện một Tập Hợp Dân Tộc có đủ điều kiện để đối phó với vần đề chính của Việt Nam: phát triển để tồn tại và tiến.

            Việc cần làm trước tiên là trong những giá trị đã được hấp thụ -- do ép buộc hay tự nguyện --  nhận ra những gì xấu và có hại cho sự tiến của Dân Tộc, cần bỏ đi;  những gì còn thích hợp với hiện đại, khả thi, nên giữ lại; những gì hư hỏng cần loại bỏ hay sửa đổi; và những gì mới, tốt, nên thâu nhận. Kế đến là vận động phổ biến những điều đó, làm cho dân biết, và chấp nhận. Đây là một công việc đòi hỏi phải có người lãnh đạo có tài lẫn đức lớn, có uy tín, được dân tin tưởng, thấu triệt các vấn đề, có  khả năng tổ chức và  điều  khiển một  tổ chức lớn. Tổ chức này có nhiệm trách nghĩ ra những tín hiệu thích hợp và  hiệu nghiệm trong viêc tụ hội quần chúng và thuyết phục họ chấp nhận những giá trị  tiêu chuẩn mới.

            Công việc trên đây là một công việc to tát, chỉ có vĩ  nhân mới làm được. Nhưng ví dụ rằng vấn đề lãnh đạo và tổ chức được giải quyết ổn thỏa, vấn đề then chốt vẫn là đưa ra một mô hình phát triển có thể tạo  được sự đồng thuận rộng rãi trong nhân dân.

            Vấn đề đã được tranh luận nhiều trong  35 năm qua trong các giới Việt Nam ở ngoại quốc. Gần đây lại có một số  đảng viên cọng sản tham dự vào cuộc tranh luận này. Các giải pháp đưa ra rất nhiều. Nhưng, chung quy, có một sự  trùng hợp về những mục tiêu  căn bản -- Tự Do,  Nhân Quyền Dân Quyền, Dân Chủ Pháp Trị, v.v….— nên không cần bàn ở đây. Vấn đề lớn  còn phải bàn  là:  làm sao thực hiện được những mục tiêu đó. Vấn  đề này còn phải bàn, và bàn một cách nghêm túc, vì , cho đến nay, trong những giải pháp được đề nghị, chưa có giải pháp nào thu hút được một sự đồng thuận rộng rãi cả.

            Một điều chắc chắn là nếu chúng ta không muốn chiến tranh, với chết choc, phí phạm tài nguyên, sinh lực, và nhứt là thờì giờ quý báu, của xứ sở thì chỉ còn phương pháp không bạo lực.  Không dùng súng đạn thì phải dùng lá phiếu, nghĩa là giải pháp phải có đa số chấp nhận. Như đã trình bày ở trên, lịch sử, qua ba giai đoạn -- trước 1883, bảo hộ Pháp, cọng sản – đã tạo cho người Việt một tâm lý – một lối tư tưởng và xử sự -- đặc biệt làm cho Việt Nam bị trì trệ, không lớn mạnh và phát triển được. Muốn tiến và mạnh phải điều chỉnh tình trạng tâm lý này, nghĩa là làm một sự sửa đổi văn hoá triệt để .

            Cốt lõi của lối tư tưởng và xủ sự nêu trên là người ta lấy tốt-xấu , chính-tà, để phán xét và lựa chọn. Đó là một lối phán xét và lựa chọn  chủ quan, có tính cách phán quyết, không cần kiểm chứng hay suy luận chặt chẽ, dựa trên tình cảm hay ý kiến cá nhân, nên không thể đưa  đến một sự đồng thuận được.  Nó là biểu chứng của một sự tự ái, tự tôn, tư tín quá lớn, và cứ thấy muốn hạ giá người khác, tìm và nêu lên những  khía xấu thay vì khía cạnh tốt của họ. Có thể nói là tính chủ quan và tự tôn quá lớn này là nết tật chính của người Việt, và lý do chính của sự thất bại của những cố gắng gây đoàn kết  để thành lập tổ chức này hay tổ chức nọ trong các giới Việt Nam hải ngoại trong  35 năm nay. Phần khác, trên bình diện quốc gia, nết  tật “Ta” đã tạo ra một tâm lý  quốc gia quá khích. Sự suy tôn “Đảng Ta”, “Chúng Ta”, tạo ra một tinh thần tự đắc coi nhân nhượng là biểu hiệu của yếu hèn.  Điều này là một chướng ngại lớn trong việc thực hiện sự Đồng Thuận cần thiết.

            Một khiếm khuyết khác, có liên hệ mật thiết với khiếm khuyết nói trên, là về mặt tư tưởng, người Việt thiếu hai đức tính căn bản  cần thiết cho công cuộc phát triển/hiện đại hoá.
Trong Chính Đề Việt Nam Tùng Phong dùng danh từ “Tây phương hoá” để nói rõ rằng  Phát triển, vấn đề chính của Việt Nam, chung quy là một vấn đề Tây phương hoá (Pháp  ngữ: occidentalisation; Anh ngữ: westernization).  “Tây phương hoá” không có nghĩa là chỉ tiêu thụ hàng hoá và sống theo lối Tây phương, du nhập hay thâu nhận khoa học kỹ thuật của Tây phương, mà phải đi xa hơn nữa: đến mức sáng tạo, nắm được cái tinh túy của văn minhTây phương. (Về chi tiết, xin xem Chính Đề Việt Nam, ở phần Chú Giải).
           
            Muốn đạt  được mức tinh túy nói trên, phải tìm hiểu cái bí quyết đó nằm ở đâu. Theo Tùng Phong, nó nằm trong hai điều:
            1/ về lý trí, chính xác trong suy luận,
            2/ trong cuộc sống hàng ngày, ngăn nắp và minh bạch.
           
            Người Việt thiếu hai đức tính trọng yếu này vì các văn hoá  Khổng Giáo, bảo hộ Pháp, và Cọng sản  đã  triệt  để không rèn luyện cho người Việt  có những đức tính đó. Và sự  khiếm khuyết này lại làm cho nết tật nói trên trầm trọng hơn..

            Một  vấn đề nữa cần được giải quyết ổn thoả để tạo được sự  Đồng Thuận rộng rãi cần thiết cho  Đoàn Kết  Dân Tộc là vấn  đề Thăng Bẳng  Xã  Hội. Vấn  đề này cũng ít được các gới “Quốc Gia” bàn đến vì họ sợ bị hiểu lầm là cũng chủ trương đấu tranh giai cấp như Cọng sản, với những khẩu hiệu “Công Bằng Xã Hội”, “San Bằng Giai Cấp”. Nhưng Việt Nam mang đặc tính của một nước chậm tiến và mất chủ quyền: xã hội Việt Nam có sự phân biệt nặng về giàu-nghèo, ưu thế-yếu thế, và người thường dân không được bảo vệ, săn sóc đúng mức. Tình trạng này đã  được  Cọng sản khai thác tối đa để lôi cuốn quần chúng với những  khẩu hiệu tuyên truyền nêu trên., và gây chia rẽ trong xã hội.

            Vấn  đề Thăng Bằng Xã Hội được Tùng Phong phân tách rất rõ ràng ,chi tiết trong Chính Đề Việt Nam.Trong  công cuộc xây dựng môt xã  hội mới  cần có “Thăng Bằng Động Tiến” để  được sự chấp nhận và yểm trợ của đại đa số nhân dân, điều kiện căn bản của ổn định xã hội, Mà ổn định xã hội là điều kiện then chốt để thực hiện sự Tây Phương Hoá  trong công cuốc Phát Triển, và sự Phát Triển này là điều kiện căn bản cho sự xây dựng một Việt Nam giàu mạnh, đủ sức đương đầu với ngoại xâm.

            Thăng bằng ở đây là thăng bằng giữa những nhu cầu của cá nhân và của cọng  đồng, và giữa những nhu cầu ngắn hạn và nhu cầu dài hạn của cọng đồng. Phần khác, vì hoàn cảnh thay đổi thường xuyên, nên những nhu cầu của cá nhân và của cọng đồng cũng thay đổi thường  xuyên. Vì vậy thăng bằng phải là một thứ thăng bằng “động”. Cuối cùng, phải bảo đảm cho xã hội được tiến tới không ngừng. Cho nên thăng bằng phải là một loại thăng bằng “tiến”. Có được thăng bằng và duy trì được thăng bằng này mới bảo đảm được sự  Đồng thuận cần thiết cho Hoà Giải và Tụ Hội Dân Tộc. (Về chi tiết, xin xem Chú Giải ở cuối bài)

            4. Hỏi  và đáp

            Trên đây đã đề cập đến những điều chỉnh văn hoá cần thiết để bảo đảm cho sự tồn và tiến của Việt Nam. Nhưng đã nêu câu hỏi thì cũng cần đưa ra giải đáp. Những giải đáp đó như sau.

            Về tư tưởng và xử sự, thay vì tốt-xấu, chính-tà, lấy thích hợp với hoàn cảnh và hiện đại, hiệu nghiệm rõ ràng, có lợi cho Dân Tộc, làm giá trị tiêu chuẩn.  Về sinh  hoạt lý trí, lấy suy luận chính xác, phù hợp với lô-gích và thực tại, làm giá trị tiêu chuẩn. Về đời sống  hàng ngày, lấy ngăn nắp, minh bạch làm giá trị tiêu chuẩn. Về  xã  hội, lấy thăng bằng động tiến làm giá trị tiêu chuẩn.

            Những điều trên đây là những ý kiến cá nhân.  Tuy rằng nó là kết quả của rất nhiều năm học hỏi, suy nghiệm, nó vẫn chỉ  là quan điểm của một cá nhân. Nó được đưa ra, không phải như    phán quyết buộc người khác phải đương nhiên phải chấp nhận, mà như là  gợi ý  và cung cấp chất liệu cho nhiều người khác suy ngẫm thêm, để đóng góp vào sự giúp Dân Tộc tồn tại và phát triển trong những điều kiện tốt. Với hy vọng rằng sẽ có nhiều người cũng làm như vậy, nhất là trong thời gian mà hoàn cảnh quốc nội và quốc tế chưa cho phép thay đổi tình trạng  hiện tại của Việt Nam.  Nhưng một lúc nào đó, tình hình quốc tế, và nhứt là quốc nội, sẽ đổi thay, đặc biệt  là nếu đa số, hay hơn nữa, đại đa số nhân dân Việt Nam đòi hỏi những giải pháp thích hợp hơn, buộc chính quyền, dù ngoan cố đến đâu, cũng phải nhợng bộ và chấp nhận thay đổi. Nhưng lúc đó phải có ngay giải pháp thay thế rõ ràng, khả thi, và được sự đồng thuận của quốc dân, thay vì bắt đầu vạch kế hoạch, và tới đâu hay đó.

            Rất mong rằng có nhiều trí thức, lãnh đạo chính trị, xã hội, giáo dục, lãnh đạo tinh thần, sẽ lập ra một ban, hay một nhóm, nghiên cứu, ngồi lại và bàn luận với nhau về những vấn đề trên, và vạch ra và công bố một chương trình sữa đổi văn hoá thích hợp, khả thi, được sự đồng thuận của mọi thành viên, và có khả năng thu hút được sự chấp nhận của đại đa số người  Việt ngoài lãn trong nước, để giải thoát Việt Nam ra khỏi bế tắc hiện tại.


------------------------------------------

CHÚ GIẢI

về

Chinh Đề Việt Nam

            Tác phẩm này, 355 trang, bàn đặc biệt về vấn  đề thế nào phát triển và thoát khỏi sự lệ thuộc Trung Quốc. Nó được xuất bản ỏ Sài Gòn năm 1964, được tái bản ở Hoa Kỳ năm 1988, và tái bản lần thứ hai cũng ở Hoa Kỳ năm 2009. Trong tác phẩm tái bản lần thứ nhất  năm 1988 , tác giả mang tên Tùng Phong, nhưng theo lời giải thích của  Nhà Xuất Bản Hùng Vương, LA, thật ra nó là một công trình tập thể của “một nhóm chiến sĩ trong bộ phận nghiên cứu chính trị của Đệ Nhất Cọng Hoà,”, mà trưởng nhóm tất nhiên là Ông Ngô Đình Nhu. “Lời trần tình” của ấn bản 2009 nói  rõ: “Tập tài liệu mà các bạn có trong tay là kết tụ của những kinh nghiệm và phân tích dưa trên kinh nghiệm lịch sử của cố vấn Ngô Đình Nhu cùng một số phụ tá thân cận….”
            Tác phẩm này  được soạn thảo để làm tài liệu học tập dành cho cán bộ cao cấp của ĐNCH, nên không bán ra ngoài. Muốn có tác phẩm này, xin liên lạc với Ông Đỗ Như Điện, 405 Ranger Road, Fallbrook, CA. 92028-8482, E-Mail: donhudien@yahoo.com, ĐT: 858-337.7049

            Tác phẩm Chính  Đề Việt Nam  được bàn đến chi tiết trong  Đặc  San 2009 của Hội Ái Hữu Người Việt Quốc Gia Hãi Ngoại, với tít Chính Đề Việt Nam, Một Viên Ngọc Quý. Muốn có đặc san này , xin liên lạc với Ngo Dinh Diem Memorial, 9029, McFadden Avenue, Westminster, CA 92683, Đ.T: 714-277.9888, E-Mail: lephammai@msn.com


Tôn Thất Thiện

Viết cho Diễn Đàn Thế Kỷ (Westminster, CA)
Ottawa
21, tháng 8, 2010                                                                           



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét